Công ty bê tông Phúc Tiến nhận thi công dự án, các công trình xây dựng nhà thép, nhận chế tạo cơ khí, gia công cơ khí chính xác, sản xuất chế tạo các linh kiện máy công nghiệp, nông nghiệp, thiết bị trao đổi nhiệt, thiết bị chịu lực, khung nhà thép tiền chế.
Công ty bê tông Phúc Tiến nhận thi công dự án, các công trình xây dựng nhà thép, nhận chế tạo cơ khí, gia công cơ khí chính xác, sản xuất chế tạo các linh kiện máy công nghiệp, nông nghiệp, thiết bị trao đổi nhiệt, thiết bị chịu lực, khung nhà thép tiền chế.
Thị lang bộ binh Lý Lâm Phủ là người giảo hoạt, xu nịnh. Hắn ta mua chuộc các hoạn quan và tì nữ thân cận của Minh Hoàng để biết được các hoạt động và sở thích của Minh Hoàng, lại kết giao với Võ Huệ phi, hứa giúp con bà ta là Thọ vương Lý Mạo làm Hoàng thái tử. Do đó Huệ phi tín nhiệm Lâm Phủ, nhiều lần tiến cử hắn lên Minh Hoàng. Tháng 4 năm 734, hắn được phong làm Lễ bộ thượng thư. Sang tháng 6, nhà vua phong Bùi Quang Đình làm Thị trung, Trương Cửu Linh làm Trung thư lệnh, Lâm Phủ làm Đồng trung thư môn hạ tam phẩm. Ba người trở thành ba tể tướng trong triều[43].
Cũng năm đó, hoàng đế thấy Trương Thủ Khuê có nhiều công trạng, muốn phong làm Tể tướng, nhưng Trương Cửu Linh lo sợ mất quyền lực, bèn thuyết phục ông bỏ ý định. Dù vậy, Trương Thủ Khuê cũng được thăng lên các chức vụ cao trong triều[77]. Từ năm 736, nhà vua ngày càng tỏ ra không còn tha thiết với việc chánh sự, và bắt đầu trở nên lãng phí và thích tiêu khiển. Trương Cửu Linh nhiều lần khuyên gián, khiến ông không vừa ý và từ đó Cửu Linh dần bị thất sủng. Hơn nữa, Cửu Linh ủng hộ thái tử Lý Anh[Ghi chú 17], trong khi Lý Lâm Phủ đứng về phe Thọ vương Lý Mạo (con trai của Võ Huệ phi). Năm 736, Lý Lâm Phủ bày mưu khiến Minh Hoàng tin rằng Trương Cửu Linh và Bùi Diên Linh kết bè kết đảng trong triều, khiến hai ông này bị bãi chức. Lâm Phủ đưa Ngưu Tiên Khách là người cùng phe cánh vào triều, để củng cố quyền lực. Mùa hạ năm năm 737, Giám sát ngự sử Chu Tử Lượng phát hiện Ngưu Tiên Khách là kẻ bất tài, đưa bằng chứng lên Minh Hoàng. Nhưng hoàng đế đã bị Lý Lâm Phủ làm mờ mắt, chẳng những không nghe mà còn biếm chức Tử Lương, đánh trượng và đày sang Nhương châu. Lý Lâm Phủ nhân đó tố cáo rằng Chu Tử Lượng là do Trương Cửu Linh tiến cử, do đó Cửu Linh bị bãi chức Tể tướng, đày sang Kinh châu[Ghi chú 18]. Trong khoảng 15 năm tiếp theo, Lý Lâm Phủ độc chưởng quyền hành, và dùng nhiều thủ đoạn để có thể giữ được quyền lực, bao gồm cả việc nói xấu những người tài năng có khả năng đe dọa vị trí của mình, và tìm cách ngăn chặn những công văn nói xấu mình tới tai hoàng đế. Không khí tự do trong triều đình những năm đầu Khai Nguyên đến đây đã không còn nữa. Điều này thường được các nhà sử học truyền thống xem là bước ngoặt trong thời đại của Minh Hoàng, chấm dứt một thời kỳ hoàng kim trong lịch sử, mở ra một thời kỳ suy thoái. Nhận xét của Tư Mã Quang trong Tư trị thông giám[45]
Tiếp đó đầu năm 737, Lý Lâm Phủ bày kế hãm hại thái tử Lý Anh. Gian thần Dương Hồi căm ghét Thái tử Lý Anh cùng Ngạc vương Lý Dao, Quang vương Lý Cư. Hắn ta tố cáo rằng thái tử liên kết với anh vợ Tiết Tố Tiềm có mưu đồ đại sự. Còn Lý Lâm Phủ giả vờ không dám bàn tới việc này. Từ lúc Trương Cửu Linh bị bãi chức, thái tử Lý Anh mất đi chỗ dựa, đến đó khi bị gièm pha, thái tử không sao giải thích được. Minh Hoàng bèn ra lệnh đày ba người con Lý Anh, Lý Dao, Lý Cư làm thứ nhân, đày đến Nhương châu, không lâu sau, đích thân ông ra lệnh ép ba hoàng tử phải tự sát ở Lam Điền[33].
Lý Lâm Phủ sau đó được phong làm Tấn quốc công, Ngưu Tiên Khách làm Bân quốc công. Hai người này muốn đưa Thọ vương Lý Mạo, hoàng tử thứ 18, con của Võ Huệ phi làm thái tử, nhưng nhà vua do dự, chần chừ gần 1 năm không quyết định được. Đến năm 738, hoạn quan Cao Lực Sĩ lên tiếng khuyên ông nên lập con trưởng, do đó đến tháng 6 cùng năm, Minh Hoàng lập người con trai lớn tuổi nhất còn sống là Trung vương Lý Dư làm Thái tử, sau đó đổi tên thành Lý Thiệu rồi Lý Hanh.[78]
Tháng 1 năm 738, Võ Huệ phi mất, Minh Hoàng vô cùng xót thương, bèn truy phong bà ta làm Trinh Thuận hoàng hậu. Sử sách ghi nhận rằng Đường Minh Hoàng đã buộc hơn 4 vạn người phụ nữ vào cung để phục vụ cho ông, nhiều hơn bất kỳ nhà Đường hoàng đế nào khác[79][80]. Nhiều người trong số họ đến năm 60 tuổi vẫn không được cho phép xuất khỏi cung[81][82][83][84].
Tháng 2 năm 739, Lý Lâm Phủ được phong làm Thượng thư bộ Lại, Trung thư lệnh. Từ đó hắn trở thành người nắm quyền lực cao nhất trong triều. Có chức Tể tướng, Lý Lâm Phủ tìm mọi cách để củng cố chức vị của mình, dùng thủ đoạn ngăn chặn đường tiến thân của hiền sĩ. Năm 740, Minh Hoàng bất ngờ bãi Ngưu Tiên Khách khỏi triều đình, đày đến Sóc Phương mà không rõ lý do tại sao, nhưng sau lại sử dụng trở lại. Sang đầu năm 742, ông cho đổi niên hiệu Khai Nguyên thứ 30 thành Thiên Bảo nguyên niên.
Ngày 5 tháng 1 năm 742, trưởng huynh của Minh Hoàng là Ninh vương Lý Thành Khí (đổi tên thành Lý Hiến từ năm 716) qua đời. Minh Hoàng vì ngày xưa Ninh vương nhường lại đế vị cho mình, nên đối với Vương luôn dành nhiều sự tôn trọng; đến đây thì truy tôn là Nhượng hoàng đế, táng ở Huệ lăng[Ghi chú 19] theo nghi lễ dành cho thiên tử, vợ là Nguyên thị là Cung hoàng hậu. Mùa thu năm đó, Ngưu Tiên Khách chết, nhà vua dùng một thành viên trong tông thất Lý gia là Lý Thích Chi được đảm nhiệm ngôi Tả thừa tướng[85].
Năm 743, Minh Hoàng muốn phong cho Dương Thận Căng làm Ngự sử trung thừa, nhưng Dương Thận Căng sợ Lý Lâm Phủ sẽ hãm hại nên không dám nhận. Từ đó, các đại thần hầu hết sợ uy Lý Lâm Phủ, việc gì cũng nghe theo hắn, không còn ai dám can ngăn thẳng thắn nữa. Nền chính trị tốt đẹp thời Khai Nguyên đã trở thành quá khứ. Đầu năm 745, do thấy Minh Hoàng trọng dụng Thượng thư bộ Hộ Bùi Khoan Tố, Lý Lâm Phủ lo sợ chức Tể tướng bị lung lay, bèn gièm pha Khoan Tố. Do đó Khoan Tố bị đày đến Tuy Dương.
Tuy nhiên Lý Lâm Phủ cũng gặp phải sự chống đối từ Lý Thích Chi, một tể tướng khác. Đến giữa năm 746, anh của thái tử phi Vi thị là Vi Kiên bị Lý Lâm Phủ mưu hại. Tương tác thiếu tượng Vi Lâm cùng Binh bộ ngoại lang Vi Chi mượn lời của thái tử Lý Hanh xin tha cho Vi Kiên. Minh Hoàng rất tức giận còn Lý Hanh rất lo sợ, bèn xin ly hôn với Thái tử phi Vi thị. Sau đó nhiều thành viên trong gia tộc họ Vi bị lưu đày xuống phương nam. Nhân đó Lý Lâm Phủ tố cáo cả Lý Thích Chi có liên hệ với họ Vi. Do đó Lý Thích Chi bị bãi chức, giáng làm Thái thú Nghi Xuân[37]. Các đại thần khác như Vi Bân, Bùi Khoan, Lý Tề Vật,... tổng cộng hơn 10 người bị đuổi khỏi triều đình, riêng Vi Kiến, Lý Ung và Bùi Đôn Phục bị xử tử. Thay thế tướng vị bỏ trống của Lý Thích Chi là Trần Hy Liệt, người được Minh Hoàng cất nhắc chỉ bởi vì thông hiểu Đạo Giáo và các phép phù thủy. Sang năm 747, Hoàng Phủ Duy Minh cùng bốn anh em họ Vi bị ban chết. Lý Thích Chi, Vương Cư - những người theo Minh Hoàng từ thời còn công chúa Thái Bình - sợ hãi, đều uống rượu độc tự tử[86]. Con Lý Thích Chi là Lý Thích Nghiêng đem thi hài cha về Trường An, cũng bị Lý Lâm Phủ tố cáo và bị đánh cho tới chết.
Cùng năm đó, Minh Hoàng muốn tìm người tài giỏi trong nước ra phục vụ cho triều đình. Lý Lâm Phủ rất lo sợ, bèn nghĩ kế xin Minh Hoàng rằng nếu như có nhiều người ứng tuyển làm quan thì sẽ khó xem xét hết được, nên chia làm hai vòng, sau khi khảo sát kẻ sĩ trong một địa phương rồi mới chọn những người giỏi lên cho triều đình xem xét và bổ dụng. Kết quả Lý Lâm Phủ uy hiếp quan lại địa phương, nên không có sĩ tử nào vượt qua vòng khảo thí ở quận huyện. Lâm Phủ bèn chúc mừng nhà vua rằng nhân tài trong thiên hạ đã về phục vụ triều đình hết rồi, nên trong nhân gian không còn sót một ai nữa[86]. Mùa hạ năm 749, Thái thú Hàm Ninh Triệu Phụng Chương dâng sớ kể 20 tội lớn của Lý Lâm Phủ. Lâm Phủ tức giận, bèn gièm pha Phụng Chương với nhà vua rồi sai triệu ông ta vào cung, đánh cho tới chết.
Từ sau cái chết của Võ Huệ phi, Minh Hoàng trở nên buồn rầu không vui. Đến khi ông gặp được Thọ vương phi là Dương Ngọc Hoàn, vợ Lý Mạo, thấy Ngọc Hoàn có sắc đẹp, bèn bắt cô ta làm nữ quan trong cung, rồi đem Vi Chiêu Huấn cho Lý Mạo làm vương phi. Ngọc Hoàn được ban pháp hiệu Thái Chân. Thái Chân pháp sư chẳng những đẹp mà còn giỏi về âm luật. Năm 745, Minh Hoàng đưa bà ta vào cung, và hết mực sủng ái, người trong cung đều gọi là Nương tử. Nghi phục Minh Hoàng dành cho bà ta cũng chẳng khác gì hoàng hậu.[86]. Khi đó Đường Minh Hoàng đã 60 tuổi, còn Dương Thái Chân chỉ mới có 27.
Mùa thu năm 746, Minh Hoàng phong Dương Thái Chân làm Quý phi, truy tặng cha Quý phi Dương Huyền Diễm làm Binh Bộ thượng thư, thúc phụ Huyền Khuê làm Quang Lộc Khanh, anh họ Quý phi là Dương Tiêm được phong làm Điện trung thiếu giám. Từ đó, Dương quý phi trở thành người được Minh Hoàng yêu quý nhất và nắm quyền trong hậu cung. Người hầu hạ trong viện của Quý phi có đến hơn 100. Các đại thần bên ngoài muốn được hoàng đế trọng dụng đều chủ động dâng lễ vật quý cho Quý phi. Nhiều người được thăng tiến bằng con đường này. Trong hậu cung, từ khi Dương Quý phi xuất hiện thì các phi tần khác đều rất khó được ân hạnh nữa. Hoàng đế gặp Dương Quý phi lúc tuổi đã ngoài 50, cơ thể suy nhược vì trải qua những thú vui sắc dục thái quá. Hoàng đế nhờ An Lộc Sơn dâng một thứ linh đan gọi là "Trợ tình hoa" giúp có nhiều sức khỏe để được hòa hợp vui say cùng Dương Quý phi. Để làm vui lòng quý phi, Minh Hoàng không tiếc tốn kém bao nhiêu tiền của. Bấy giờ núi Ly Sơn[Ghi chú 20] có cung Ôn Tuyền nằm gần một suối nước nóng. Năm 747, nhà vua cho sửa chữa cung Ôn Tuyền và đổi tên là Hoa Thanh cung. Mỗi năm, cứ đến mùa đông, ông lại cùng Quý phi đến đấy nghỉ và ngắm nàng tắm ở con suối này[88].
Mùa đông năm 748, ba người anh của Dương Quý phi là Dương Quốc Trung, Dương Tiêm, Dương Kĩ ngày càng trở nên giàu có; mà ba người chị của Quý phi làm Thôi thị, Bùi thị, Liễu thị cũng được phong làm Hàn quốc, Quắc quốc và Tần quốc phu nhân. Ba người này đều có nhan sắc, cũng được Minh Hoàng yêu mến, trở thành những người giàu có bậc nhất trong thành Trường An[89]. Thấy chỉ nhờ một Dương quý phi mà khiến cả gia tộc được hậu ái đến cùng cực, người Trung Hoa thời kì đó lại thích sinh con gái hơn là con trai.
Dương Quý phi tuy có nhan sắc nhưng tính nết ương ngạnh, nhiều lần đắc tội và xung đột với Minh Hoàng. Tháng 3, năm 750, sau một lần xung đột, Quý phi bị đuổi khỏi cung. Nhưng có hoạn quan Cao Lực Sĩ cầu xin cho Quý phi, do đó nhà vua lại hối hận, sai Lực Sĩ đến thăm, Quý phi cắt tóc gửi về dâng vua. Vua trông thấy mà xúc động quá, lại vời Quý phi về và sủng ái hơn trước.
Trong khi đó ở bán đảo Triều Tiên, nhà Đường dần để mất ưu thế vào tay Vương quốc Tân La. Trong nỗ lực kiềm chế tham vọng của vương quốc Bột Hải, nhà Đường đã chấp nhận yêu cầu của Tân La (đời Tân La Thánh Đức vương) là bố trí quân đội Tân La ở Hwanghae và sông Đại Đồng vào năm 735. Điều đó chứng tỏ rằng nhà Đường đã chính thức trao cho Tân La vùng lãnh thổ phía nam sông Đại Đồng, vùng đất được nhà Đường quản lý ít nhất là từ thế kỷ 7 trong các chiến dịch của họ với Tân La nhằm đánh bại Cao Câu Ly. Một biểu hiện cải thiện quan hệ giữa Tân La với nhà Đường.
Bối cảnh bất lợi về chiến lược bắt đầu chuyển sang vương quốc Bột Hải vào năm 734 – 735, khi thủ lĩnh người Khiết Đan là Khả hãn Khuất Liệt, Khả hãn Lý Qua Chiết và Khả Đột Vu và đồng minh Hãn quốc Hậu Đột Quyết (các đời Bì Gia Khả hãn A Sử Na Mặc Cức Liên, Y Nhiên Khả hãn A Sử Na Y Nhiên) của Khả Đột Vu bị quân đội nhà Đường đánh bại. Ngoài ra, một lực lượng gồm 5.000 kỵ binh Khố Mạc Hề (Kumo Xi) đã đầu hàng nhà Đường. Sự thất bại của người Khiết Đan và người Đột Quyết trước nhà Đường, và sự phục tùng của Khố Mạc Hề với nhà Đường đã loại bỏ vùng đệm đã hình thành giữa vương quốc Bột Hải và nhà Đường. Cảm nhận được sự thay đổi trong diễn biến chiến lược, Bột Hải Vũ Vương quyết định cầu hòa với nhà Đường. Hai nước Bột Hải và nhà Đường đã ký hòa ước, với điều kiện Bột Hải phải cống nạp cho nhà Đường.
Tháng 2 năm 737 một sứ thần nhà Đường đến Tân La để sắc phong cho người kế vị của vua Tân La Thánh Đức vương là vua Tân La Hiếu Thành vương) làm quốc vương Tân La, và được xác nhận rằng vua Tân La Thánh Đức vương thực tế đã mất vào năm 736.[90]
Cùng năm 737, các thủy thủ và thường dân nhà Đường bị giam giữ ở Bột Hải từ năm 732 được Bột Hải Vũ Vương cho hồi hương về lại nhà Đường (đời vua Đường Huyền Tông). Trong năm 737 Bột Hải Vũ Vương (Đại Vũ Nghệ) qua đời. Con trai thứ ba của ông ta là Đại Khâm Mậu (Dae Heummu) lên kế vị, tức là vua Bột Hải Văn Vương. Vua Bột Hải Văn Vương của vương quốc Bột Hải cũng thiết lập quan hệ ngoại giao với nhà Đường.
Cuối năm 737, ở nước Đột Kị Thi (vốn bị chia rẽ thành hai phái Hoàng và Hắc) tù trưởng Mạc Hạ Đạt Can giết Khã hãn Tô Lộc. Tướng Đô Ma Độ, đồng minh cũ của Mạc Hạ Đạt Can là Đô Ma Độ chống lại ông ta, lập Cốt Xuyết là Thổ Hỏa Tiên Khả hãn, phân tranh với Mạc Hạ Đạt Can. Mạc Hạ Đạt Can sai người đến cầu viện Thích Tây Tiết độ sử Cái Gia Vận. Minh Hoàng được tin, sai Gia Vận dẫn quân công đánh Đột Kị Thi. Thổ Hỏa Tiên và Đô Ma Đô chiếm cứ thành Toái Diệp, cùng Hắc Tính Khã hãn Nhĩ Vi Đặc Lặc cát cứ ở thành La Tư bèn liên kết với nhau kháng Đường.
Năm 738, một đoàn sứ giả từ vương quốc Bột Hải (đời vua Bột Hải Văn Vương) đã yêu cầu nhà Đường thực hiện các quy tắc nghi lễ và lịch sử triều đại trong một cử chỉ mang tính biểu tượng hướng tới hòa bình giữa Bột Hải và nhà Đường. Đồng thời, rắc rối với Thổ Phiên ở phía tây đã buộc nhà Đường phải rút toàn bộ lực lượng quân sự khỏi mảnh đất Cao Câu Ly cũ và áp dụng thế phòng thủ trước Bột Hải (trước đó nhà Đường luôn áp dụng thế tấn công trước Bột Hải). Vua Bột Hải Văn Vương cử nhiều du sinh sang nhà Đường để học tập (giống như nước Tân La đang làm) và nhiều người thậm chí đã vượt qua kỳ thi khoa cử của Trung Quốc.[92] mở rộng ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo tại Bột Hải. Bột Hải đã tích cực tiếp nhận văn hóa và hệ thống chính trị của nhà Đường tại Trung Quốc. Các nghiên cứu khảo cổ về cách bố trí của các thành phố Bột Hải đã đưa ra kết luận rằng chúng có chức năng tương tự như các thành phố Cao Câu Ly, đồng thời cũng cho thấy Bột Hải có duy trì sự tương dồng văn hóa với nhà Đường sau khi được thành lập.[93]
Giứa năm 738, tướng Đỗ Hi Vọng đem quân tiến công Thổ Phiên, đoạt được đất Hà Kiều. Thổ Phiên cử 30.000 quân chống trả. Đỗ Hi Vọng vì binh ít lương thiếu, không thể chống lại Thổ Phiên. Nhưng khi đó có tả Uy vệ lang tướng Vương Trung Tự tự đem quân ra ứng chiến trước, giết hơn 100 quân, Hi Vọng nhân đó thừa cơ tập kích, Thổ Phiên bị đại bại. Không bao lâu sau, Minh Hoàng phong cho vua Nam Chiếu Mông Bì La Các làm Vân Nam vương. Mông Bì La Các tuy nhận tước phong của nhà Đường, kỳ thực chính là một vương quốc độc lập. Nước Nam Chiếu sau đó thu phục nhiều bộ lạc Nam Man, dần trở nên lớn mạnh và trở thành mối đe dọa mới ở biên cương nhà Đường.[45]
Mùa thu năm 739, Khả hãn Thổ Hỏa Tiên bị Cái Gia Vận bắt sống. Sau đó Cái Gia Vận đánh thành La Tư, bắt sống Hắc Tính Khả Hãn Nhĩ Vi, bắt hơn 10.000 người đem về. Do đó thế lực của nhà Đường càng lớn mạnh. Năm 740, Cái Gia Vận bắt Thổ Hỏa Tiên về Trường An, Minh Hoàng hạ lệnh xá tội, phong làm Kim Ngô tướng quân. Sau đó ông phong cho A Sử Na Hân làm Thập tính Khả hãn, cai trị phương bắc. Minh Hoàng còn muốn thăng chức cho Cái Gia Vận, nhưng sau đó nghe theo tể tướng Bùi Diệu Khanh, cho rằng Gia Vận không có công, bèn không phong thưởng nữa. Mạc Hạ Đạt Can thất A Sử Na Hân làm Khả hãn, tức giận khởi binh. Minh Hoàng sai Cái Gia Vận tìm cách chiêu dụ và phong Mạc Hạ Đạt Can làm Khả hãn. Mạc Hạ Đạt Can bèn quy hàng, đến tháng 6 năm 742 thì giết A Sử Na Hân. Cùng năm đó, Minh Hoàng phong cho Đô Ma Độ làm Tam tính diệp hộ[45].
Thổ Phiên ngày càng lớn mạnh, liên tục dẫn quân công phá biên giới. Lúc này nhà Đường đã mệt mỏi vì chiến tranh, do đó Thổ Phiên càng xâm lấn nhiều hơn. Tuy quân Đường đánh dẹp được, nhưng quốc lực cũng bị tổn hao rất nhiều. Những năm cuối đời Đường Minh Hoàng, Thổ Phiên lại trở thành mối đe dọa thực sự của nhà Đường.
Mùa hạ năm 741, 140.000 quân Thổ Phiên rầm rộ kéo sang đất Thanh Hải nhà Đường. Tướng Tang Hi Dịch dẫn 5000 quân kích phá thành công, buộc Thổ Phiên rút lui. Sang tháng 7 cùng năm, nước Đột Quyết sinh ra nội loạn của Cốt Đốt Diệp Hộ, nhà vua sai Tả Võ Lâm tướng Tôn Lão Nô liên kết với Hồi Hột và Cát La Lộc chờ thời cơ công đánh.
Cùng năm 741 bộ lạc Đạt Hề khởi binh chống triều đình. Minh Hoàng sai Tiết độ sứ Phu Mông Linh Sát đi đánh. Phu Mông Linh Sát sai Cao Tiên Chi mang 2000 quân ra cự. Quân Đạt Hề hành quân xa, mệt mỏi, chưa muốn giao chiến. Cao Tiên Chi chủ động ra quân đánh bại quân Đạt Hề. Phong Thường Thanh ngồi trong trướng viết tin báo thắng trận, tường thuật tỉ mỉ tình hình mặt trận, mưu kế đánh thắng địch ra sao. Những gì Cao Tiên Chi định nói, Phong Thường Thanh tự viết thay lại hết khiến Cao Tiên Chi cũng cảm thấy bất ngờ. Thắng trận trở về, Phong Thường Thanh được mọi người kính nể, được Minh Hoàng phong làm Địa hạ tuất chủ Lũy châu.
Sang niên hiệu Thiên Bảo (742-756) thời Minh Hoàng, tộc Thổ Phiên gả con gái cho vua nước Tiểu Bột Luật, xúi giục nước Tiểu Bột Luật tấn công nhà Đường. Từ đó, tộc Thổ Phiên khống chế hơn 20 nước phía tây bắc nhà Đường. Nhà Đường ra quân nhiều lần đánh không thắng được.
Cùng năm 743, quân Đường do Hoàng Phủ Duy Minh chỉ huy đánh bại Thổ Phiên ở thành Hồng Tế. Cùng năm 743, Minh Hoàng dời nhiệm sở của An Đông đô hộ phủ từ Bình Châu (nay là Lư Long, Hà Bắc, Trung Quốc) sang Liêu Tây Cổ Thành, tương ứng với Doanh Châu[Ghi chú 21][95], đồng thời gọi An Đông phó Đại đô hộ Cổ Tuần (贾循) từ Bình Châu sang Liêu Tây Cổ Thành (đến khi An Lộc Sơn nổi dậy năm 756 thì An Đông đô hộ phủ chánh thức bị bãi bỏ).
Sang mùa hạ năm 744, Hà Tây Tiết độ sứ Mông Linh giết chết Mạc Hạ Đạt Can. Minh Hoàng bèn phong cho Cốt Đốt Lộc Bì Già làm Thập tính Khả hãn ở Đột Kị Thi.
Mùa thu năm 744, Bạt Tất Mật Công giết chết Khả hãn Ô Tô của Đột Quyết, dâng thủ cấp đến Trường An. Vương Trung Tự bèn nhân đó công đánh Đột Quyết, liên quân với Hồi Hột và Cát La Lộc, giết được Mật Hiết Điệt Y Khả hãn. Vua Hồi Hột là Cốt Lực Bùi La cũng nhân đó tự xưng Già Khuyết Khả hãn, triều đình nhà Đường công nhận ông ta. Từ đó Đột Quyết diệt vong, lãnh thổ cũ thuộc về Hồi Hột. Trong thời gian này, Hồi Hột chủ trương thần phục nhà Đường[86].
Năm 745 Minh Hoàng ban cho Nam Chiếu (đời vua Mông Bì La Các) 2 bộ nhạc của người Hồ.
Năm 747, do Thổ Phiên bỏ việc triều cống, Minh Hoàng sai tướng Đường gốc Cao Câu Ly là Cao Tiên Chi làm Tiết độ sứ hành doanh, đem 1 vạn quân kỵ thảo phạt Thổ Phiên. Cao Tiên Chi dẫn quân Đường vượt núi Bá Mật[98], tấn công hạ được đồn Liên Vân[99] của Thổ Phiên. Từ núi Việt Hưng Đô Khố Thập trên đỉnh Thản Câu[100], Cao Tiên Chi đánh thẳng xuống sườn núi, giành thắng lợi, thu lại hơn 40 dặm đất cho nhà Đường, đại thắng được quân Thổ Phiên. Sau đó tướng Ca Thư Hàn được Minh Hoàng bố trí lãnh quân chống Thổ Phiên. Tháng 8 năm đó, Cao Tiên Chi mở cuộc tấn công ồ ạt, quét sạch quân Tiểu Bột Luật khiến uy danh của ông ta vang khắp vùng phía tây[101]. Minh Hoàng xét công bèn phong Cao Tiên Chi làm Tiết độ sứ 4 trấn Tây An.
Năm 748, Ca Thư Hàn nhiều lần đánh bại Thổ Phiên, khiến họ không dám vượt qua vùng Thanh Hải. Cùng năm 748, nhà Đường phong Mông Các La Phượng làm Vân Nam vương (雲南王). Có sự giúp sức của nhà Đường, Mông Các La Phượng khống chế và thâu tóm chính quyền các bộ tộc của Thoán Thị (爨氏) và chiếm hầu hết khu vực Vân Nam.
Đến năm 750, Cao Tiên Chi (người Cao Câu Ly) suất quân Đường đi diệt nước Khiết Sư, bắt vua Bột Đặc Một. Do vậy uy thế của nhà Đường mở rộng hơn về phía tây[89]. Cao Tiên Chi giả cách hòa hoãn với một quốc gia phía tây là nước Thạch[102]. Sau đó, nhân lúc họ không phòng bị, Cao Tiên Chi mở một cuộc tấn công bất ngờ, giành được thắng lợi. Ông ta thu lấy rất nhiều vàng bạc châu báu của họ khiến nhiều nước phía tây bất bình[103].
Vân Nam vương Mông Các La Phượng vì không chịu hối lộ cho thái thú Vân Nam[Ghi chú 22] Trương Kiền Đà, và Kiền Đà gièm pha với Minh Hoàng rằng Nam Chiếu có ý gây sự. Do đó Mông Các La Phượng tức giận, cùng năm 750, dẫn quân đánh Vân Nam, giết được Trương Kiền Đà, chiếm 32 châu ở Vân Nam, chính thức phản lại nhà Đường. Nghe tin, Tể tướng nhà Đường là Dương Quốc Trung phái Thiền Vu Trọng Thông đem quân đội đến Nhung Châu, Tây Châu, chia ra 3 đường tiến binh chống lại Mông Các La Phượng. Tháng 4 năm 750, quân Đường do Tiết độ sứ Kiếm Nam Tiên Vu Trọng Thông ra quân thảo phạt Mông Các La Phượng, song bị thua một trận lớn ở Lô Nam. Minh Hoàng sau đó lại cử 80.000 quân, phân hai đường, tiến đánh Mông Các La Phượng. Mông Các La Phượng nhanh chóng phái sứ giả giảng hòa, nhưng Thiền Vu Trọng Thông không chấp nhận, tiếp tục tiến binh. Thế là Mông Các La Phượng bí bách xin Thổ Phồn cứu giúp.
Tuy nhiên đến năm 751, nhà Đường phải chịu thất bại lớn ở Hạ Quan trước quân đội của Vân Nam vương Mông Các La Phượng và quân Thổ Phồn. Quân Đường thiệt hại hơn 6 vạn nhân mạng, tức 3/4 quân số. Ngày nay, mồ tướng (2 km về phía tây Hạ Quan), và mả vạn binh (trong công viên Thiên Bảo) là chứng tích cho thảm bại này của quân đội nhà Đường. Từ trận này, Vân Nam vương Mông Các La Phượng và vua Thổ Phồn kết làm huynh đệ chi bang. Nhưng Dương Quốc Trung đang cầm quyền trong triều lại giấu giếm việc này, nói dối là quân Đường đại thắng. Còn ở phía tây, chuỗi thắng trận liên tục của Cao Tiên Chi bị chặn đứng ở trận Đát Tư La[105] trước quân Abbasid[Ghi chú 23][106] năm 751, khiến nhà Đường không thể xâm nhập sâu hơn về phía tây được nữa[89][107].
Năm 754, nhà Đường lại cử Lý Mật đem quân đội sang đánh Vân Nam vương Mông Các La Phượng, lần này từ phía bắc, nhưng khi quân Đường đến thì không công thành được, lại hết lương, bệnh dịch nên Lý Mật phải rút đi. Mông Các La Phượng nhân đó truy kích và tiêu diệt toàn bộ quân Đường của Lý Mật.
Sau đó của Vân Nam vương Mông Các La Phượng nhiều lần xâm nhập biên cương. Quân Đường đối phó một cách chậm chạp và kém hiệu quả. Còn ở phía tây, Cao Tiên Chi lại gặp thất bại trước quân đội Thổ Phiên, thế lực của nhà Đường đối với lân bang do đó suy giảm rõ rệt.
Năm 735, Minh Hoàng theo lời đề nghị của Trương Thủ Khuê, phong cho hai nghĩa tử của ông ta là A Lạc Sơn và Sử Tốt Cán làm quan trong triều, đổi tên chúng là An Lộc Sơn và Sử Tư Minh. An Lộc Sơn nắm quân ở phía bắc, thường tỏ ra dũng cảm thiện chiến và giả vờ trung thành, do đó Minh Hoàng rất tín nhiệm. Hắn lại mua chuộc nhiều quan lại được nhà vua cử đến giám sát, nên được bọn này nói giúp. Cuối năm 741, Minh Hoàng phong An Lộc Sơn làm Đô đốc Doanh châu, Sung quân sử ở Bình Lư, Kinh lược sứ của bốn phủ.
Trong triều đình trước đó không có chính sách trọng dụng người ngoại tộc. Đến khi Lý Lâm Phủ làm tể tướng đã ra sức khuyên hoàng đế nên dùng người Hồ, vì lẽ người Hồ thì sẽ trung thành hơn người Hán, mặc dù lý do chủ yếu là từ động cơ cá nhân của ông ta: sợ rằng nếu triều đình dùng quá nhiều người Hán thì sẽ có ngày địa vị của mình lung lay[86]. Do đó, một loạt tướng có gốc là người tộc khác như An Lộc Sơn người Hồ, Cao Tiên Chi người Cao Câu Ly được ông trọng dụng[45][86]. Năm 742, Đường Minh Hoàng cho bố trí quân đội ở các khu vực hiểm yếu, gồm 9 phủ Tiết độ sứ, 1 phủ Đô hộ sứ (Lĩnh Nam) và ba phủ Kinh lược sứ (Trường Lạc, Đông Lai, Đông Mưu)
Tổng cộng ở những nơi này có tất cả 490.000 quân và hơn 80.000 ngựa chiến. Từ thời điểm đó, do chính sách bố trí nhiều quân đội như vậy và cũng do các cuộc tấn công liên tiếp của Thổ Phiên, chi phí cho chiến tranh của nhà Đường ngày càng lớn, mọi gánh nặng lại đổ lên vai người dân, do đó tình hình kinh tế đi xuống, dân chúng khổ cực.
Năm 744, Đường Minh Hoàng phong cho An Lộc Sơn làm Tiết độ sứ Phạm Dương. An Lộc Sơn từ đó nắm được hai phiên trấn hiểm yếu, bắt đầu phát triển thế lực lớn mạnh, trở thành mầm họa cho nhà Đường về sau. Nhưng Minh Hoàng không nhận ra việc đó, vẫn một mực tin tưởng An Lộc Sơn. Trong triều, Lý Lâm Phủ cũng có mưu toan riêng, muốn dựa vào thế lực của An Lộc Sơn để làm lợi cho mình, do đó Lộc Sơn nhiều lần làm việc trái phép mà nhà vua không hề hay biết, lại tưởng hắn là người trung thành. Bấy giờ Vương Trung Tự nhìn rõ dã tâm của An Lộc Sơn, bèn tâu lên hoàng đế, nhưng ông không tin. Vốn là người biết nhiều thứ ngôn ngữ, Lộc Sơn dễ dàng thiết lập liên minh với Hề và Khiết Đan, tạo thành thế lực lớn.
Cùng lúc đó ở trong triều, Lý Lâm Phủ e ngại Vương Trung Tự - người Hán - nắm giữ 4 trọng trấn (Hà Tây, Lũng Hữu, Sóc Phương, Hà Đông), sẽ là mối đe dọa với ngôi tể tướng, nên thường nói giúp cho An Lộc Sơn. Năm 747, Lý Lâm Phủ cáo buộc Vương Trung Tự có âm mưu lật đổ nhà vua, đưa thái tử lên thay. Trung Tự bị bắt, và chỉ thoát khỏi án tử hình theo lời khẩn cầu của, Wang bị bắt và hạ cấp, thoát chết nhờ lời cầu xin của phó tướng Kha Thư Hàn. Triều đình sau đó dùng Thư Hàn cai quản Hà Tây, Lũng Hữu; rồi lại giao cho An Lộc Sơn thêm hai trấn Bình Lư, Hà Đông. Lộc Sơn trở thành vị tướng nắm nhiều binh quyền nhất trong khắp đế quốc[86].
Cũng trong năm đó, An Lộc Sơn một lần vào triều, nhà vua mở tiệc thết đãi Trong buổi tiệc, Lộc Sơn tự mình ra múa điệu Hồ Toàn (một điệu múa xoay tròn của người Hồ) để góp vui. Minh Hoàng thấy ông ta bụng béo mà múa như vậy, không nhịn được cười mà nói[109]
Vì thế nhà vua rất vui mừng[109]. Trong buổi hôm đó Lộc Sơn gặp được Dương Quý phi thì sinh ra thèm muốn, bèn giả cách nhận Quý phi là mẫu thân[109], nhân đó được tự do ra vào cung cấm, mà thông gian với Quý phi. Minh Hoàng phong phanh nghe được, nhưng cũng bị An Lộc Sơn qua mặt và lừa gạt một cách dễ dàng. Ở phía đông bắc (lãnh địa An Lộc Sơn cai quản), Lộc Sơn cho tuyển chọn ra 8000 quân thiện chiến làm lực lượng nòng cốt, nhiều người bộ tộc Đồng La, Hề, Khiết Đan rất dũng mãnh, thiện chiến mà ông nuôi dưỡng, huấn luyện thành lực lượng riêng gọi là Duệ lạc hà (tiếng bản tộc có nghĩa là tráng sĩ)[89]. Biết thái tử Lý Hanh không ưa mình, An Lộc Sơn càng gấp rút chuẩn bị, phòng ngày sau nhà vua qua đời.[110]
Lý Lâm Phủ nắm quyền lâu ngày, rất được Minh Hoàng tin tưởng, tướng vị tưởng chừng vững chắc. Tuy nhiên kể từ năm 750, Dương Quốc Trung và Trần Tiên Kỳ bắt đầu liên minh với nhau mong lật đổ ông ta[89]. Dương Quốc Trung vì là anh họ của Quý phi, nên nhanh chóng được cất nhắc. Từ năm 746 hắn liên tục thăng tiến, ngoi lên chức Ngự sử trung thừa. Hắn liên kết với một số đại thần, tiêu diệt một số thân tín của Lý Lâm Phủ, hòng lên làm Tể tướng. Sau đó Lý Lâm Phủ và Dương Quốc Trung ra mặt đối địch với nhau.
Cuối năm 752, Lý Lâm Phủ bệnh nặng, tâu xin Minh Hoàng đưa Dương Quốc Trung đến đất Thục chống Nam Chiếu. Quốc Trung biết Lâm Phủ muốn hại mình, bèn xin Quý phi nói giúp. Do đó khi Quốc Trung còn chưa tới đất Thục, đã được sai sứ triệu về. Khi đó bệnh tình của Lý Lâm Phủ đã rất nguy cấp, nhân Dương Quốc Trung đến bèn xin hắn bao dung cho con cháu của mình, nhưng Quốc Trung không đáp. Cuối năm 752, Lý Lâm Phủ chết. 19 năm tại vị của Lý Lâm Phủ là lâu nhất trong các vị tể tướng dưới thời Minh Hoàng, và trong 19 năm đó, ông ta đã khiến cho quốc lực nhà Đường suy yếu trầm trọng, là mầm mống là họa loạn về sau. Sau khi Lý Lâm Phủ chết, Dương Quốc Trung lập tức tố cáo ông ta là kẻ đồng lõa trong cuộc nổi dậy của tướng Lý Hiến Trung, kết quả Lâm Phủ hặc tội (dù đã chết), gia đình ông ta bị lưu đày[89].
Đầu năm 753, Dương Quốc Trung được phong làm tể tướng. Sau đó, một sự xung đột lại nổ ra giữa Dương Quốc Trung và An Lộc Sơn. Quốc Trung nhiều lần cảnh báo hoàng đế rằng An Lộc Sơn sẽ tạo phản, nhưng Minh Hoàng trước sau không tin. Đến năm 754, Dương Quốc Trung tâu rằng nếu bây giờ mà triệu An Lộc Sơn đến kinh đô, hắn chắc chắn sẽ từ chối, và nhà vua quyết định làm như vậy để thử lòng Lộc Sơn. Lộc Sơn liệu thời cơ chưa chín muồi, nên quyết định vào kinh diện thánh. Sau sự kiện này, Hoàng đế không còn nghi ngờ gì đối với An Lộc Sơn nữa. Tuy nhiên, vì sự phản đối của Dương Quốc Trung, nên Minh Hoàng tạm gác dự định kế hoạch phong An Lộc Sơn làm tể tướng[111].
Cũng năm đó, Dương Quốc Trung tìm cách loại bỏ tể thần khác là Trần Hi Liệt, bèn tố cáo Hi Liệt. Hi Liệt biết mình sẽ bị Quốc Trung hãm hại, nên chủ động xin từ chức để tránh tai họa. Nhà vua lấy Thị lang Võ bộ[Ghi chú 35] Cát Ôn lên thay làm tể tướng thứ hai[111]. Sau đó Dương Quốc Trung còn vu khống và loại bỏ được đại thần Kinh Triệu doãn Lý Hiện[111].
Năm 754, An Lộc Sơn đề bạt 500 người Hề, Khiết Đan, Cửu Tính, Đồng La lên làm tướng quân và 2.000 người thăng chức Trung lang tướng. Sang đầu năm 755, lại dùng 32 tướng người Hồ thay các tướng người Hán, từ đó toàn bộ tướng lãnh dưới quyền An Lộc Sơn đều là người Hồ. Ngoài ra, An Lộc Sơn còn ra sức tích lương thảo, nuôi nhiều chiến mã, làm số quân và thực lực mạnh hơn hẳn lực lượng của triều đình trung ương nhà Đường.
Cuối năm 755, Dương Quốc Trung tiến hành bao vây phủ đệ của An Lộc Sơn ở Trường An, bắt giữ và hành quyết những người thân của ông ta đang ở đây. Lộc Sơn khi đó đang ở Phạm Dương, hết sức tức giận. Ngày 16 tháng 11 năm 755, An Lộc Sơn nghe theo gợi ý của thuộc hạ, triệu chư tướng lại, giả cách tuyên bố mình nhận mật chiếu của thiên tử, đem quân vào tru diệt Dương Quốc Trung. Sau đó, Lộc Sơn khởi binh từ Phạm Dương, liên kết với Hề, Khiết Đan, Đồng La, chính thức phản Đường. Quân An có 15 vạn, nhưng phao lên là 20 vạn[111]. Loạn An Sử bắt đầu[112].
Các thành phía đông bắc nhanh chóng rơi vào tay An Lộc Sơn. Đến khi thông tin truyền tới Trường An, nhà vua bàng hoàng, còn Dương Quốc Trung dương dương tự đắc vì mình đã đoán đúng, và dự đoán chỉ trong 20 ngày, An Lộc Sơn sẽ bị thuộc hạ giết chết. Tiết độ sứ An Tây Phong Thường Thanh xin mở phủ khố ở Lạc Dương, chiêu mộ sĩ tốt tòng quân, Minh Hoàng nghe theo. Sau đó Thường Thanh mộ 60.000 quân, đóng ở Hà Dương gây thanh thế. Huyền Tông lại phong cho Tiết độ sứ Sóc Phương An Tư Thuận làm Hộ bộ thượng thư, Thái thú Cửu Nguyên Quách Tử Nghi là Tiết độ sứ Sóc Phương, Lý Quang Bật làm Tiết độ sứ Hà Đông phòng thủ các trấn này; Vương Thừa Nghiệp làm Thái Nguyên doãn, Vinh vương Lý Uyển làm Nguyên soái, Cao Tiên Chi làm phó, suất quân đông chinh, đóng ở đất Thiểm châu[Ghi chú 36].
Nhưng các thành của nhà Đường vẫn lần lượt bị mất: Bác Lăng, Hao Thành rồi Trần Lưu, Bình Nguyên, Huỳnh Dương, Vĩnh Dương, Thường Sơn... sau đó quân Yên kéo đến Lạc Dương. Tướng Đường giữ Lạc Dương là Phong Thường Thanh thua trận, bỏ chạy tới Thiểm châu hội quân với Cao Tiên Chi cùng giữ thành. Minh Hoàng bèn cho giết chết con trai An Lộc Sơn là An Khánh Tông đang làm con tin ở kinh đô, và bắt vợ Khánh Tông là Vinh Nghĩa quận chúa tự vẫn.
An Lộc Sơn sai thuộc tướng Thôi Càn Hựu mang quân tiếp tục tiến quân đánh Thiểm châu. Hai tướng Đường giữ Thiểm châu là Phong Thường Thanh và Cao Tiên Chi chống cự không nổi, bị quân An Lộc Sơn đánh bại ở Võ Lao. Cao Tiên Chi và Phong Thường Thanh phải chạy về giữ Đồng Quan. Phong Thường Thanh bị Minh Hoàng cách chức Tiết độ sứ Phạm Dương vì để thua trận mất Đông đô. Cao Tiên Chi lệnh cho Phong Thường Thanh tuần tra giám sát các trại xung quanh. Cùng lúc, Thôi Càn Hựu đóng quân tại Thiểm châu, cùng đối lũy với Cao Tiên Chi. Minh Hoàng cũng muốn thân chinh đánh An Lộc Sơn, để thái tử Lý Hanh giám quốc, nhưng Dương Quốc Trung tâu rằng Lý Hanh có dã tâm lớn, không thể một lúc phó thác hết chính sự cho được. Ông bèn bỏ lệnh thân chinh.
Vua sai hoạn quan Biên Lệnh Thành ra làm Giám quân, giám sát quân Cao Tiên Chi. Biên Lệnh Thành thường hạch sách bắt Cao Tiên Chi thỏa mãn yêu cầu cá nhân, nhưng đều bị Cao Tiên Chi từ chối.[103] Biên Lệnh Thành thù hận Cao Tiên Chi, trở về kinh tâu với Minh Hoàng rằng[103]:
Minh Hoàng không đánh giá hết thực lực của quân An Lộc Sơn và không xem xét diễn biến thực tế ngoài mặt trận[113], nghe theo lời gièm của hoạn quan Biên Lệnh Thành[114], nổi cơn tức giận, sai Biên Lệnh Thành cầm lệnh ra Đồng Quan, xuống tay giết cả Phong Thường Thanh và Cao Tiên Chi, và cử tướng Ca Thư Hàn ra trấn thủ Đồng Quan. Ngày 18 tháng chạp (đầu năm dương lịch 756), cả Cao Tiên Chi và Phong Thường Thanh đều bị chém đầu. Việc chém tướng khi đang lâm trận của Minh Hoàng bị xem là phạm phải điều đại kỵ không nên làm[113].
Sau đó Minh Hoàng cử Ca Thư Hàn (đang dưỡng bệnh ở nhà) dẫn 80.000 quân đến trấn thủ Đồng Quan. Tháng 1 năm 756, An Lộc Sơn tiếm xưng hoàng đế, lấy quốc hiệu là Yên[115]. Cùng lúc đó, nhà vua sai Lý Quang Bật 5000 quân tiến về phía đông, đánh phá Thường Sơn[Ghi chú 37]. Lý Quang Bật đánh tan quân của Sử Tư Minh, thu phục 10 huyện ở Thường Sơn. Kế đó, tháng 5 ÂL, đại tướng Quách Tử Nghi chiếm lại hai quận Vân Trung[Ghi chú 38], Mã Ấp[Ghi chú 39]. An Lộc Sơn phải rút về Lạc Dương củng cố lực lượng, và sai Sử Tư Minh cứu Hà Bắc, lệnh cho con trai An Khánh Tự ở lại Đồng Quan.
Sử Tư Minh tuy bị quân Đường áp đảo ở Hà Bắc nhưng thế lực còn lớn. Quách Tử Nghi dùng kế đánh lâu dài để làm tiêu hao sinh lực địch, tình thế trên chiến trường đã chuyển sang nghiêng về phía quân Đường khi Sử Tư Minh bị đánh phải lui về Bác Lăng[Ghi chú 40].
Ở Đồng Quan, Ca Thư Hàn dùng chiến thuật phòng thủ không ra khiến quân Yên mắc kẹt không tiến lên được[111]. Tuy nhiên ngay lúc này, Đường Minh Hoàng lại mắc sai lầm. Tại Trường An và xung quanh kinh thành nổ ra dư luận trong các tướng lĩnh quy trách nhiệm cho Dương Quốc Trung lộng hành và kích động ra cuộc phản loạn của An Lộc Sơn. Các tướng đang trấn giữ Đồng Quan như Ca Thư Hàn, Vương Tư Lễ khuyên có ý mang quân về kinh thanh trừng Dương Quốc Trung. Dương Quốc Trung sợ, bèn mộ 10.000 quân để tự vệ. Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật và Ca Thư Hàn đều chủ trương đánh lâu dài, chờ An Lộc Sơn mất lòng dân. Nhưng nhà vua nôn nóng thắng trận, nghe lời sàm tấu của Dương Quốc Trung, ép Kha Thư Hàn xuất kích từ Đồng Quan ra đánh quân Yên, nhanh chóng chiếm lại Lạc Dương. Thang 8 năm đó, Ca Thư Hàn đành phải nghe lệnh, kết quả đại quân vừa kéo ra thì rơi vào phục kích, 100.000 quân bị tiêu diệt bởi mai phục của Yến quân, Đồng Quan bị mất, bản thân Ca Thư Hàn bị giết. Bức tường Đồng Quan chắn ngay trước thành Trường An đã rơi vào tay kẻ địch[116].
Chiếm được Đồng Quan, An Lộc Sơn kéo về Trường An. Cả triều đình nhà Đường nhốn nháo, người dân cuống cuồng thu dọn đồ đạc, chuẩn bị rút khỏi kinh đô.
Ngày 14 tháng 7 năm 756[117], trước tình thế quân Yên đã sắp đánh tới Trường An; Đường Minh Hoàng vội vã thu dọn hành lý, bỏ khỏi kinh đô, cùng Dương Quý phi, Dương Quốc Trung, Cao Lực Sĩ... chuẩn bị chạy sang đất Thục, nhưng bề ngoài tuyên bố là hoàng thượng thân chinh. Khi ông ra khỏi kinh đô, Dương Quốc Trung sai đốt cầu bắc ngang sông để ngăn chặn quân Yên. Ông nói
Rồi sai dập lửa[118][119]. Sau đó Minh Hoàng tới Hàm Dương. Lúc đó, tình cảnh triều đình lưu vong hết sức kham khổ, đến cả Đường Minh Hoàng cũng bị thiếu thức ăn, còn các hoàng tử và tùy tùng vì đói cũng đành tìm vào những thôn xóm để xin ăn.
Lúc đó, một bô lão đến nói với nhà vua
Sau đó đoàn tùy tùng tiếp tục lên đường, đến Kim Thành. Khi đó viên lệnh đã trốn mất, lại nghe tin Kha Thư Hàn bại trận; nhiều người bỏ trốn không theo nhà Đường nữa.
Ngày 15 tháng 7, đoàn tùy tùng của Đường Minh Hoàng đến trạm dịch Mã Ngôi[Ghi chú 41]. Lúc đó binh sĩ tùy hành đói khát mệt mỏi, tình cảnh nguy cấp. Đại tướng Trần Huyền Lễ thấy rằng cảnh loạn lạc là bởi Dương Quốc Trung mà ra, nên muốn diệt trừ. Thái tử Lý Hanh biết việc nhưng không dám hợp tác với Huyền Lễ. Không lâu sau, có tiếng hô hoán ngoài trạm dịch:
Rồi xông vào giết Dương Quốc Trung. Sau đó lại giết luôn người con của Trung là Dương Huyên cùng Hàn quốc, và Tần quốc phu nhân. Ngự Sử Đại Phu là Ngụy Phương Tiến lên tiếng mắng lại, cũng bị giết nốt. Minh Hoàng nghe có biến động, bèn hỏi nguyên do, mới biết quân sĩ làm phản. Ông bèn chống gậy ra ngoài xem, ra lệnh cho binh sĩ phải trở về đội ngũ, hứa sẽ không hỏi tội. Nhưng binh sĩ không chịu. Trần Huyền Lễ thưa:
Minh Hoàng do dự, vào bên trong. Lát sau, cúi đầu đi ra. Kinh Triệu doãn Triệu Tư Lục cùng Vi Ngạc đều khuyên ông phải thuận theo tình thế. Ông nói với Cao Lực Sĩ:
Đường Minh Hoàng không còn cách nào để đối phó, đành phải nghe theo ý của Cao Lực Sĩ, ban chết cho Quý phi. Theo các sử sách cổ như Tư trị thông giám, Cựu Đường thư, Đường quốc sử bổ... thì Quý phi bị tử hình bằng cách treo cổ dưới gốc cây lê. Tuy nhiên các thi nhân đương thời trong những tác phẩm của mình mô tả quý phi bị tử hình bằng hình thức khác: Đỗ Phủ và Đỗ Mục cho rằng bà bị loạn quân giết chết, Lý Ích nói bà bị dìm chết dưới vũng bùn, lại có ý kiến nói bà bị ngựa giẫm nát thây, hay đổ bột vàng đã nấu sôi vào họng cho đến chết. Lúc Quý phi qua đời, nhà vua cực kì đau xót, cũng không dám chứng kiến cảnh ấy. Sau khi Dương quý phi mất, đoàn tùy tùng lại rời khỏi Mã Ngôi. Các tướng sĩ muốn đến Linh Võ, Thái Nguyên hoặc về Trường An. Minh Hoàng lại muốn chạy tiếp vào Tứ Xuyên, nhưng bị phụ lão giữ lại. Ông bèn để thái tử ở lại trấn an phụ lão ở xung quanh kinh đô còn mình tiếp tục chạy về phía tây[122][123]. Phụ lão trong thành thất vọng về ông, bèn nảy ý tôn phò thái tử. Sau đó ngày 12 tháng 8, được sự ủng hộ của các đại thần, Lý Hanh lên ngôi hoàng đế tại Linh Vũ[Ghi chú 42], đó là vua Đường Túc Tông. Túc Tông tôn Huyền Tông làm Thái thượng hoàng.
Trong khi đó tình cảnh của đoàn tùy tùng đi theo Thái Thượng hoàng ngày một bi đát hơn, các binh sĩ đào ngũ ngày một nhiều, Trần Huyền Lễ cũng không kiềm chế được. Thượng hoàng bèn triệu các tướng lại, hứa sẽ hậu thưởng xứng đáng cho họ nếu còn trung thành với triều đình nhà Đường, sau đó ông dùng lời lẽ thân tình để phủ dụ tướng sĩ, do đó họ rất cảm động, thề chết để bảo vệ ông.[124] Tình trạng đào ngũ và phản bội không còn nữa.
Lúc đó Thượng hoàng chưa biết việc Túc Tông đã đăng cơ, bèn phong cho một số người con và tướng lĩnh dẫn quân đến phòng thủ một số nơi dưới sự chỉ huy chung của Hoàng thái tử (tức là Túc Tông). Túc Tông được Thượng hoàng phong làm Thiên hạ binh mã nguyên soái, Đô thống Sóc Phương, Hà Đông, Hà Bắc, Bình Lư đẳng tiết độ binh mã để chỉ huy việc khôi phục hai kinh.
Ngày 1 tháng 9, Thượng hoàng đến Thành Đô, Thục quận, lúc bấy giờ bên cạnh ông chỉ còn khoảng 1300 binh sĩ và 24 cung nữ. Sang ngày 10 tháng 9[125], Thượng hoàng mới nhận được tin trong nước đã có tân đế, quyết định công nhận ngôi vị của Túc Tông, tự xưng Thái thượng hoàng, đổi mệnh lệnh của mình là cáo (thay vì chiếu). Ngày Kỉ Hợi (16 tháng 9), Thượng hoàng triệu bá quan đến tuyên chỉ dụ[126]
Về sau, để tránh bị nghi ngờ rằng mình và vua Túc Tông đang đối đầu nhau, Thượng hoàng đã hạ lệnh cho một số văn thần võ tướng được phép rời khỏi Thành Đô, đến Linh Vũ để phụng sự cho Túc Tông[126].
Đến tháng 10 năm 757, Quách Tử Nghi đánh bại quân của An Khánh Tự[Ghi chú 43], khôi phục được hai kinh[127], đón Đường Túc Tông về kinh. Tháng sau, Túc Tông sai Đạm Đình Dao đến Thành Đô rước Thượng hoàng về Trường An. Ngày Đinh Mão tháng 9 Âm lịch, Thượng hoàng rời khỏi Thành Đô, đến quận Phụng Tường. Sau khi qua trạm dịch Mã Ngôi, Thượng hoàng sai tìm di thể của Dương Quý Phi để cải táng nhưng lúc đó di thể đã mục nát thối rữa, không thể nhận ra được, chỉ còn một túi gấm bên cạnh vẫn tỏa hương thơm. Thượng hoàng bèn giữ lấy, đem về và thường xuyên ngắm nhìn, như thể Quý phi còn sống[22]. Ông truy tặng mẹ ruột của Túc Tông là Dương Quý tần làm Hoàng hậu. Lại nhớ xưa kia Trương Cửu Linh từng cảnh báo ông về sự nguy hiểm của An Lộc Sơn, bèn sai sứ giả đến mộ của Cửu Linh để viếng tế[128].
Túc Tông sai 3000 tinh kị đến Phù Phong[Ghi chú 44] để hộ vệ cho Thượng hoàng, và có ý muốn đón ông về kinh. Ban đầu Thượng hoàng e ngại không muốn về, mà muốn ở lại Kiếm Nam. Túc Tông cảm thấy do dự, sau đó nghe theo lời của Lý Bí, không đả động gì đến việc trả lại ngôi vua, khi đó Thượng hoàng mới yên tâm[129].
Ngày 29 tháng 1 năm 758, Túc Tông đích thân đến Hàm Dương[Ghi chú 45] cung nghênh đón Thượng hoàng, sau đó yết kiến ông ở Nam Lâu. Túc Tông muốn trả ngôi lại cho Thượng hoàng, nhưng ông từ chối, nói:
Ngày 5 tháng 3 năm 758, Thượng hoàng về lại Trường An sau 2 năm rời khỏi, được bá quan văn võ và dân chúng đón tiếp long trọng. Sau đó ông được bố trí ở cung Hàm Nguyên trong điện Đại Minh. Sau đó, ông đến tạ lỗi với tổ tiên vì thần chủ của nhiều tiên đế đã bị quân Yên phá hủy trước đó, rồi chuyển sang sống ở cung Hưng Khánh[129].
Lúc này Thượng hoàng hầu như không can thiệp vào việc chánh sự, song vẫn gây ảnh hưởng nhất định đối với Túc Tông. Ví dụ như khi Túc Tông vì cảm ích ơn Trương Duyệt từng cứu mình lúc còn trong bụng mẹ[Ghi chú 46] và khi bị Lý Lâm Phủ hãm hại, nên khi hai con của Trương Duyệt là Trương Quân và Trương Tể theo giúp giặc Yên và bị quân Đường bắt lại, Túc Tông có ý muốn tha cho họ. Nhưng do Thượng hoàng không hài lòng với những hành động phản bội này, nên cuối cùng Trương Quân bị giết, còn Trương Tể bị đày ra Lĩnh Nam[129].
Mùa xuân năm 758, Đường Túc Tông suất quần thần đến tôn xưng Thượng hoàng là Thái thượng Chí Đạo Thánh hoàng đế.
Vợ Túc Tông là Trương hoàng hậu, vốn lăng loàn thô bạo, thấy Thượng hoàng già cả yếu đuối, cũng không thèm tôn trọng gì cả. Trong triều, hoạn quan Lý Phụ Quốc lộng quyền, đến cả Túc Tông cũng không dám làm gì. Túc Tông nhiều lần muốn thăm Thượng hoàng cũng bị Trương hoàng hậu ngăn trở. Tại cung Hưng Khánh, Thượng hoàng có những người thân tín tháp tùng như Cao Lực Sĩ, Trần Huyền Lễ, thị nữ Lưu Tiên Viện cùng các hoạn quan như Vương Thừa Ân, Ngụy Duyệt. Ngoài ra ông cũng thường đi dạo cùng em gái là công chúa Ngọc Chân Lý Trì Doanh cùng các hoạn quan hầu hạ mình khi xưa, và hay mời nhạc sư đến biểu diễn giúp vui, và mở những tiệc rượu khao thưởng binh sĩ Kiếm Nam, để Lưu Tiên Viên và Lý Trì Doanh đại diện ra rót rượu mời. Có lúc Thượng hoàng còn đến ngự ở lầu Trường Khánh, gần khu dân cư, khi người đi đường thấy ông đều dừng lại mà bái vọng. Đôi khi Thượng hoàng còn sai Cao Lực Sĩ lấy một số thức ăn ban cho họ, nên được tung hô.
Lý Phụ Quốc nhân đó gièm pha với Túc Tông, rằng Thượng hoàng có ý trở lại làm vua. Cuối cùng vào năm 760, Phụ Quốc liên kết với Trương hoàng hậu, nhân Thượng hoàng ra cưỡi ngựa, Lý Phụ Quốc ép buộc ông phải trở về cung điện, không lâu sau giả lệnh Túc Tông, xin Thượng hoàng đến Tây Nội bàn việc. Khi sắp tới Tây Nội, Thượng hoàng thấy Lý Phụ Quốc mặc võ phục, đeo kiếm, dẫn mấy trăm quân sĩ, vác thương, cầm kiếm, xếp hàng hai bên đường, nên lo sợ. Cao Lực Sĩ mắng Lý Phụ Quốc, do đó Phụ Quốc phải lui ra. Nhưng Thượng hoàng bị giữ lại ở điện Cam Lộ trong Tây Nội.[130]
Sau đó, Lý Phụ Quốc lập mưu hãm hại, vu khống Cao Lực Sĩ rồi đày ông ta đến Ba Thục, Ngọc Chân công chúa cũng bị bắt đi làm trở về đạo quán[130]. Thượng hoàng do đó rơi vào cảnh cô đơn, không có ai bầu bạn, cuối cùng sinh ra bệnh trầm cảm, từ chối không chịu ăn thịt nữa mà chỉ ăn chay. Khi Đường Túc Tông biết chuyện, rất tức giận, muốn giết Lý Phụ Quốc, nhưng khi đó Lý Phụ Quốc nắm hết binh quyền trong cung, Túc Tông không làm gì được.
Ngày 3 tháng 5 năm 762, Thượng hoàng băng hà ở Tây Nội, hưởng thọ hơn 76 tuổi, được truy tôn là Chí Đạo Đại Thánh Đại Minh Hiếu hoàng đế (至道大圣大明孝皇帝), miếu hiệu là Huyền Tông (玄宗)[6]. Lúc ấy Cao Lực Sĩ được ân xá đang trên đường về kinh, thì nghe tin Thượng hoàng chết, cũng đau buồn than khóc đến nỗi thổ huyết ra mà chết theo.[131].
13 ngày sau cái chết của Thượng hoàng, vua Túc Tông cũng qua đời, trong triều đình xảy ra nhiều vụ biến động, cuối cùng Đường Đại Tông Lý Dự tiêu diệt được Trương hoàng hậu, Lý Phụ Quốc, bình định xong loạn An Sử[132], khôi phục lại nhà Đường.
Tháng 3 ÂL năm 763, triều đình làm lễ an táng cho Đường Minh Hoàng, chôn cất vào Thái Lăng[131].
Triều đại của Đường Minh Hoàng có thể chia ra làm hai giai đoạn rõ rệt: thời kì cực thịnh ứng với niên hiệu Khai Nguyên, và thời kì đãi chính cuối Khai Nguyên và Thiên Bảo. Lý Long Cơ từ nhỏ sống trong cảnh khổ cực: 8 tuổi mất mẹ, và phải trải qua một cuộc sống không khác gì bị giam cầm, nhưng sau đó bằng tài năng và lòng quả cảm, ông đã đánh bại được những tranh chấp, đấu đá trong triều đình và chấm dứt luôn một giai đoạn oanh liệt của những người phụ nữ trên chính trường Trung Quốc. Nửa đầu những năm trị vị, Đường Minh Hoàng kế thừa những chính sách cai trị của ông cố nội là Đường Thái Tông, ông chú trọng người hiền, chỉnh đốn mọi việc, tuyển chọn nhân tài, thưởng phạt nghiêm minh, tạo sự liên kết chặt chẽ giữa nhà vua và các quan, triều Đường xuất hiện một thời kỳ phát triển rực rỡ về mọi mặt mà các nhà viết sử thường gọi là "Khai Nguyên thịnh thế" - coi đó như một thời đại hoàng kim của lịch sử phong kiến Trung Quốc[75][133], thuế khóa lao dịch rộng rãi, hình phạt rõ ràng, dân chúng ấm no[134].
Trong triều đình, ông dùng các tể tướng trong những năm này như Diêu Sùng, Tống Cảnh, Trương Cửu Linh... đều là những người hiền năng, có tài trị lý. Các nhà sử học đều khen ngợi Đường Minh Hoàng biết chọn nhân tài[135]
Đối với địa phương, ông quy định chế độ thuyên chuyển quan lại, tăng cường việc biên phòng. Về kinh tế thì chủ trương tiết kiệm, thay đổi lối sống xa xỉ trong hậu cung từ thời Võ Tắc Thiên. Vì thế, tài chính ngày càng dồi dào, kho tàng đầy đủ, vật giá bình ổn. Khoa học kĩ thuật cũng được quan tâm phát triển[75]. Sự giàu mạnh trong nước cũng dẫn đến sự tăng cường uy tín của nhà Đường đối với lân bang, các nước lân cận như Cao Câu Ly, Bách Tế, Nhật Bản, Thiên Trúc (Ấn Độ), Thổ Phiên, Lâm Ấp, Chân Lạp... cho đến miền Trung Á, Bắc Phi thường cử sứ giả đến Trường An thiết lập quan hệ ngoại giao, buôn bán. Việc quan hệ với nước ngoài đã được đa dạng hoá, tạo nhiều cơ hội để học tập, sự giao lưu với nhiều nước Âu á có nền văn minh lâu đời đã khiến cho triều Đường trở thành cầu nối văn minh lớn nhất ở Đông Á[75]. Nhà thơ Đỗ Phủ có bài thơ "Ức tích" ca ngợi về thời đại này. Bản dịch của Phan Ngọc[136]
Tuy nhiên về cuối đời, Đường Minh Hoàng nảy sinh chán nản với chính sự, đỉnh điểm của sự tha hóa này chính là sự xuất hiện của Dương quý phi. Những năm cuối đời ông bị nhiều sử gia chỉ trích vì thói lãng phí và việc trọng dụng bọn gian thần như Lý Lâm Phủ, Dương Quốc Trung, An Lộc Sơn[137], đồng thời cũng do ông trọng dụng Cao Lực Sĩ mà mở ra tiền lệ hoạn quan tham chính rồi tiến tới chuyên quyền những năm sau đó của nhà Đường. Một trong những sai lầm lớn nhất của ông có lẽ làm áp dụng chính sách "trong nhẹ ngoài nặng" của tể tướng Lý Lâm Phủ, tức là tăng cao quân đồn trú ở các vùng biên giới, mà lại coi nhẹ kinh sư vốn phải là nơi căn bản. Ngoài ra Lâm Phủ còn kêu gọi Minh Hoàng sử dụng người Hồ tiếp quản các trọng trấn thay vì người Hán. Chính điều này đã giúp cho An Lộc Sơn có cơ hội khuếch trương thế lực và gây thành loạn An Sử. Lại đến khi họa loạn nổ ra, tuy nhà Đường đã xuống dốc nhưng lực lượng vẫn nhiều hơn gấp 4 lần so với quân Yên cùng hàng loạt các tướng lĩnh trung thàh sẵn sàng xả thân nơi chiến trường vì hoàng thất, cộng thêm với đất đai rộng lớn nhất trong lịch sử cùng tài nguyên chiến lược, nếu Đường Minh Hoàng biết cách dùng binh đúng cách thì cũng không đến nỗi gây thành một mối họa lớn. Tuy nhiên ngay khi đó chính ông lại phạm liên tiếp các sai lầm mà đỉnh điểm là khi Kha Thư Hàn cố thủ ở Đồng Quan, ông lại nóng lòng muốn thắng lợi, nghe lời Quốc Trung, ép Kha Thư Hàn xuất kích, kết quả dẫn đến thảm bại, thất thủ Đồng Quan và coi như đã mở toang cổng thành Trường An cho quân Yên. Cái giá phải trả cho vị hoàng đế già buộc phải bỏ trốn khỏi kinh đô chạy loạn, không thể cứu được vị phi tử mà mình thương yêu, và cuối cùng bị hoạn quan bức hiếp, chết trong sự cô đơn và phẫn uất. Nhà Đường tuy cuối cùng đã đánh dẹp được An Sử nhưng không bao giờ có thể khôi phục lại nền thịnh trị như trước được nữa[142].
Sử gia Nguyễn Hiến Lê đánh giá cao tâm hồn thi sĩ của Đường Minh Hoàng song lại xem thường khả năng trị quốc của ông
Cố Chủ tịch Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Mao Trạch Đông cho rằng triều đại của Đường Minh Hoàng là nửa sáng, nửa tối. Chế độ Tiết độ sứ do ông lập ra đã nhanh chóng phát triển sau khi nhà Đường dẹp xong loạn An Sử, dẫn đến một giai đoạn xung đột và mất ổn định, kéo dài đến tận khi nhà Đường diệt vong và mở ra thời đại Năm đời Mười nước[143].
Đạt Hề Doanh Doanh là tiểu thiếp của một hoạn quan[Ghi chú 47] được Đường Minh Hoàng sủng ái. Doanh Doanh chẳng những tài sắc vẹn toàn mà còn là người rất phong lưu, lãng mạn. Có một hôm nàng giấu một tên Thiên Ngưu vệ vào trong phòng của mình đến nhiều ngày. Việc tên Thiên Ngưu vệ mất tích truyền đến tai nhà vua, thế là có chiếu lệnh cho lục soát khắp toàn thành. Cha của viên Thiên Ngưu vệ khai rằng hắn ta trước từng đến thăm bệnh viên hoạn quan là "chồng" của Đạt Hề Doanh Doanh. Tên Thiên Ngưu vệ biết chuyện rất sợ hãi, nhưng Doanh Doanh đã nghĩ ra một kế để giải nguy cho hắn ta[144]. Sau đó viên Thiên Ngưu vệ lẻn trốn khỏi nhà hoạn quan rồi chạy đến yết kiến Đường Minh Hoàng. Nhà vua giận dữ, hỏi mấy hôm nay hắn đã đi đâu. Hắn trả lời với nhà vua một điều gì đó mà khiến ông chẳng những không trị tội mà còn bật cười nữa[145].
Ngày hôm sau Quắc Quốc phu nhân đến, Minh Hoàng trách rằng tại sao lại giấu trai trong phủ lâu đến vậy. Thì ra Đạt Hề Doanh Doanh đã dụng kế để tên Thiên Ngưu vệ miêu tả lại cách bày trí phòng ốc và thói quen ăn uống của Quắc Quốc phu nhân, mà chuyện phu nhân giấu trai trong nhà cả thành Trường An không ai lạ gì[145], nhà vua dù có biết được cũng vì cả nể Dương quý phi nên không thể trị tội. Sách Mưu trí thời Tùy Đường gọi đây là kế "di hoa tiếp mộc", nghĩa đen là lấy cành hoa này mà cắm lên cây khác[145].