Tính Giá Trị Xuất Khẩu Bình Quân Đầu Người

Tính Giá Trị Xuất Khẩu Bình Quân Đầu Người

Dựa vào bảng số liệu sau, trả lời các câu hỏi:

Dựa vào bảng số liệu sau, trả lời các câu hỏi:

Thời điểm tính thuế xuất khẩu là khi nào?

Căn cứ khoản 2 Điều 8 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2016 quy định như sau:

Trị giá tính thuế xuất khẩu là gì?

Căn cứ khoản 1 Điều 8 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2016 quy định về trị giá tính thuế, thời điểm tính thuế như sau:

Theo đó tại khoản 24 Điều 4 Luật Hải quan 2014, có quy định như sau:

Như vậy, trị giá tính thuế xuất khẩu là trị giá của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phục vụ cho mục đích tính thuế, thống kê hải quan.

Trị giá tính thuế xuất khẩu là gì? (Hình từ Internet)

Hàng hóa áp dụng phương pháp tính thuế theo tỷ lệ phần trăm thì căn cứ tính tiền thuế xuất khẩu như thế nào?

Căn cứ Điều 5 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2016 quy định như sau:

Như vậy, số tiền thuế xuất khẩu được xác định căn cứ vào trị giá tính thuế và thuế suất theo tỷ lệ phần trăm (%) của từng mặt hàng tại thời điểm tính thuế.

Bạn đọc Võ Ngọc Anh ở phường Bàu Trâm, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai hỏi: Tòa soạn có thể cho biết trị giá tính thuế, thời điểm tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định như thế nào?

Tại Điều 8 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định như sau:

1. Trị giá tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là trị giá hải quan theo quy định của Luật Hải quan.

2. Thời điểm tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là thời điểm đăng ký tờ khai hải quan.

Đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hoặc áp dụng thuế suất, mức thuế tuyệt đối trong hạn ngạch thuế quan nhưng được thay đổi về đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, áp dụng thuế suất, mức thuế tuyệt đối trong hạn ngạch thuế quan theo quy định của pháp luật thì thời điểm tính thuế là thời điểm đăng ký tờ khai hải quan mới.

Thời điểm đăng ký tờ khai hải quan thực hiện theo quy định của pháp luật về hải quan.

“GDP bình quân đầu người 95,6 triệu một năm, lương bình quân của người lao động 8,5 triệu một tháng, 102 triệu đồng năm, sao cao vậy, tôi chẳng tin, bởi vì xung quanh tôi đa số mọi người đều thấp hơn con số ấy”. Đấy là suy nghĩ của rất nhiều người sau khi nghe Tổng cục Thống kê công bố về số liệu GDP và GDP đầu người của Việt Nam năm 2022.

Với tư duy lấy thu nhập, mức lương của đa số tầng lớp lao động trong xã hội so với GDP đầu người rồi không tin con số GDP đầu người công bố thì chẳng có quốc gia nào trên thế giới theo nền kinh tế thị trường đáng tin cả.

Chúng ta hãy xem các số liệu năm 2022 của nước Mỹ, cường quốc số 1 thế giới (mức lương trung bình lấy theo số liệu của Cục Thống kê Lao động Mỹ BLS, GDP đầu người theo IMF):

1) GDP bình quân đầu người là 75.197$, mức lương trung bình là 53.490$.

2) Tất cả các vị trí nghề trong các ngành kinh tế sau có lương trung bình thấp hơn GDP đầu người: Nông nghiệp (2/2), nghệ thuật (5/5), dịch vụ (18/18), dịch vụ khách hàng (5/5), bán lẻ (6/6), bất động sản (7/7), du lịch - khách sạn - nhà hàng (17/17), skilled trades (7/7), Social Care (3/3).

3) Các ngành sau có trên 74% vị trí nghề có mức lương trung bình thấp hơn GDP đầu người: Giáo dục và đào tạo (18/21), khoa học (23/31), sản xuất (14/15), thiết kế - kiến trúc (19/22), xây dựng (13/17), cơ khí (6/8), an ninh - an toàn (12/14), truyền thông & xuất bản (6/7), kế toán (12/13), hành chính (22/31), luật (23/31), vận tải - logistic (15/20)

4) Các ngành có mức lương trung bình cao nhất nước Mỹ (trên 50% nghề có mức lương trung bình cao hơn GDP đầu người): Dược (10/13, mức lương trung bình cao nhất là Giám đốc nhà thuốc 163.800$), y tế (64/128, mức lương trung bình cao nhất là bác sĩ giải phẫu thần kinh 428.300$), kỹ sư (19/32, mức lương trung bình cao nhất là kỹ sư Cloud 129.460$), IT (29/56, mức lương trung bình cao nhất là kiến trúc sư big data 145.600$).

5) Những nghề sau có mức lương trung bình cao nhất nước Mỹ (trên 340.000$ năm) theo thứ tự là các Bác sĩ: Phẫu thuật thần kinh, phẫu thuật tim mạch, phẫu thuật chỉnh hình, chuyên khoa tiêu hoá, X-quang can thiệp, chuẩn đoán hình ảnh, tiết liệu.

5) Mức lương trung bình năm của một số nghề điển hình: Giáo sư Đại học 128.370$, Tư vấn Tài chính 117.130$, Phó Giáo sư 80.570$, nghiên cứu Toán học 72.260$, Giáo viên THPT 51.640$, Thiết kế kiến trúc 54.660$, Thiết kế nội thất 61.234$, Thiết kế thời trang 66.300$, Tạo mẫu thời trang (54.790$), Nhà báo 42.360$, Phóng viên thời sự 42.500, Kế toán 44.300$, Phân tích tín dụng (Ngân hàng) 54.640$, Giao dịch viên Ngân hàng 27.081$.

6) Những nghề có mức lương trung bình năm thấp nhất, từ 21.000$ đến dưới 30.000$ năm (hơn, kém 1/3 GDP bình quân đầu người): Trợ giảng 24.200$, Bank Teller 27.081$, Trợ lý điều dưỡng 29.286$, Thu ngân 21.450$, Tạo mẫu tóc 22.300$, Makeup Artist 21.750$, Nail 25.050$, Dọn phòng khách sạn 26.750$, Gác cổng 24.500$.

Như vậy có thể thấy ngay rằng ở Mỹ, số nghề có mức lương trung bình chỉ bằng từ 1/3 đến một nửa GDP đầu người rất nhiều, nếu tính toán chi tiết thì số nghề có mức lương trung bình dưới 70% GDP bình quân đầu người chiếm đa số trong xã hội.

Vậy lý do tại sao đa số người lao động lại có mức lương chưa đến 70% GDP bình quân đầu người của quốc gia, trong khi theo logic thông thường thì lương cùa người lao động phải cao hơn mới đúng bởi đa số người lao động đều có thêm ít nhất 1 người sống phụ thuộc nữa.

Câu trả lời là do khâu phân phối thu nhập không đồng đều. Ở Mỹ: chỉ 1% người giầu nhất đã chiếm 32,1% tổng tài sản nước Mỹ, 2% người giàu nhất chiếm 50% tổng tài tài sản, còn 50% người thuộc nửa dưới của xã hội chỉ chiếm có 2% tổng tài sản, thậm chí gần đây chỉ còn có 0,4% tổng tài sản thôi.

Với thông tin trên thì tôi cho rằng tỷ lệ người lao động có mức lương năm thấp hơn GDP đầu người của Việt Nam thấp hơn Mỹ khá nhiều (Việt Nam dưới 95,6 triệu đồng năm, 7.966.700 đồng tháng; Mỹ dưới 75.197$ năm, 6.266$ tháng.

Điều đó đồng nghĩa rằng số người Mỹ thấy số tiền lương một năm của họ quá thấp so với GDP đầu người của quốc gia sẽ nhiều hơn số người Việt Nam có suy nghĩ tương tự.